Nhạc
dân gian
Việt Nam,
một quốc gia đa dân tộc với một nền văn minh lâu đời,
có một nền âm nhạc dân gian phong phú. Những âm điệu, tiết
tấu đặc trưng của dân ca, dân vũ là ngọn nguồn vô tận
cho những tác phẩm của nhiều nhạc sĩ qua các thời kỳ.
Dân ca
Việt Nam bắt nguồn từ ca dao và thơ mà trong đó chiếm
phần nhiều là thơ lục bát, qua thời gian của lịch sử dân
tộc, được chắt lọc, bổ sung trở thành những thể loại
ca hát dân gian khác nhau của từng địa phương, vùng miền,
từng dân tộc.
Gần với
thơ nhất là thể ngâm. Ru cũng vậy, là một lối phổ
nhạc cho những bài ca dao lục bát. Hò là thể loại phổ biến
cả nước, đặc biệt là miền Trung và miền Nam. Hò có thể
kết hợp chặt chẽ với các động tác lao động như hò kéo
gỗ, hò giã gạo... mang tính chất tập thể, một người xướng
rồi có những người cùng làm việc hò theo, nhưng cũng có
những thể Hò mang tính chất giao duyên và hò hội với các
hình thức đối đáp.
Vùng Trị
Thiên có đầy đủ các hình thức khác nhau của Hò. Người
ta chia thành Hò trên cạn và Hò dưới nước. Các điệu hò
của miền Nam là Hò trên nước có tính chất trữ tình, thanh
nhàn.
Vùng Nghệ
Tĩnh còn có hát giặm, là loại hát có thể dùng lúc làm
việc, nghỉ ngơi hay hội họp. Lý là những bài hát giao duyên
phổ biến ở miền Trung và miền Nam như Lý chuồn chuồn,
Lý ngựa ô, Lý con sáo...
Miền nam
thì có rất nhiều điệu Lý. Những câu ca dao không được
dùng trong Hò thì được đưa và Lý. Có thể nói, miền Nam
là kho tàng vô tận của các điệu lý như Lý bông lựu, Lý
cây chanh, Lý xăm xăm, Lý cây bông...
Hát Ví:
phổ biến ở Trung du Bắc bộ và vùng Nghệ Tĩnh. Đây là
một hình thức hát giao duyên.
Hát Quan
họ: có nguồn gốc ở Bắc Ninh, là lối hát rất phong
phú về âm nhạc.
Hát Chầu
văn: là hình thức hát nhà thờ, có tính chất tôn thờ
thần linh. Hình thức này có ở cả 3 miền. MiềnTrung và miền
Nam gọi là hát bóng, phục vụ cho việc lên đồng. Hát Chầu
văn gồm một cung văn là thầy cúng chuyên nghiệp đánh đàn
nguyệt giỏi, có giọng hát hay, thuộc nhiều điệu hát. Ngoài
ra còn có trống, thanh là phụ hoạ.
Hát Ả
đào: là hình thức đặc biệt của miền Bắc, thịnh hành
khoảng thế kỷ XIV. Hát Ả đào gồm có một người hát (đào
nương) hai tay gõ phách, một nhạc công đàn đáy, một trống
chầu dùng để người nghe (quan viên) khen thưởng những âm,
những giọng hay. Đây là lối hát những bài thơ nên cách
hát rất khó và có giai điệu phát triển mạnh.
Ca Huế:
là một thể loại ca nhạc thính phòng dân gian. Ca Huế được
phát triển vào miền Trung và miền Nam, gọi là ca Quảng và
nhạc tài tử miền Nam. Nghệ thuật ca Huế là sự sáng tạo
những ngón đàn hay. Các nhạc công đánh đàn mang tính ngẫu
hứng là chính, miễn sau cuối bài hát họ gặp nhau ở chủ
âm. Dàn nhạc ca Huế gồm: đàn tranh, đàn tỳ bà, đàn nguyệt,
đàn nhị, đàn tam, đàn bầu và sáo. Người hát sử dụng
bộ phách để gõ nhịp. Ngoài những hình thức trên, chúng
ta còn có những thể loại Chèo, Tuồng, Cải lương.
Tất cả
những hình thức của âm nhạc dân tộc cổ truyền Việt Nam
đều đang được bào tồn và phát triển. Đó là nguồn vô
tận cho các tác phẩm thanh nhạc và khí nhạc của nhiều nhà
soạn nhạc Việt Nam. Đã có rất nhiều ca khúc lấy cả một
làn điệu dân ca rồi đạt lời mới như:Trông cây lại nhớ
đến Người, Một khúc tâm tình của người Hà Tĩnh, Những
cô gái quan họ, Nổi trống lên núi rừng ơi...
Nghệ thuật
âm nhạc dân gian, cổ truyền là kho tàng vô giá cho nhiều
nhạc sĩ nghiên cứu, sáng tác.
Theo sách
Giảng nhạc - Tác giả: Nguyễn Thị Nhung - Nhạc viện Hà Nội
1988. |